Nguyên tắc điều trị trước hết trong sơ cứu là bất động ổ gãy, giảm
đau. Khi điều trị thực thụ, các nguyên tắc là nắn - bất động hai xương - tập vận động. Có 2 phương pháp điều trị, đó
là điều trị không mổ và điều trị bằng phẫu thuật. Chúng ta hãy cùng tham khảo
các phương pháp điều trị trong chấnthương chỉnh hình.
1. Điều trị
không mổ
Đối với trường hợp ít di lệch hoặc di lệch không hoàn toàn, bác sĩ
sẽ nắn nhẹ nhàng theo trục chi, sau đó bó bột cánh cẳng bàn tay rạch dọc. Trẻ
em thời gian bó bột là 6-8 tuần, người lớn 10-12 tuần.
Đối với trường hợp gãy di lệch, áp dụng gãy 1/3 dưới cẳng tay, trước
hết, bệnh nhân sẽ được tiến hành gây vô cảm. Trẻ em sẽ phải nhịn ăn 6 giờ và
sau đó gây mê tĩnh mạch. Đặt bệnh nhân nằm ngửa, vai dạng 90 độ, khuỷu gấp 90 độ,
lắp đai vải ở 1/3 dưới cánh tay kéo ngược lên đầu. Phụ tá sẽ một tay nắm ngón
cái kéo theo trục của xương quay, lực kéo này là chính. Tay kia nắm ngón 2,3,4
kéo về phía trụ. Bác sĩ chính sẽ chữa di lệch và tách rộng màng gian cốt bằng
cách bóp vào giữa hai xương cẳng tay.
Đặt 2 nẹp bột trước - sau cẳng tay, trên nẹp
đặt 2 đũa gỗ to 1cm, dài 10cm đặt tương ứng màng liên cốt. Khi bột ép nhẹ, 2
đũa gần nhau để mở rộng màng liên cốt. Sau đó, bó bột cánh cẳng bàn tay rạch dọc,
khuỷu 90 độ, để trong 12-13 tuần.
Khi gãy hai xương cẳng tay, do sự co kéo của
các nhóm cơ đối lực và do tác động của màng liên cốt nên sự di lệch thường phức
tạp và khó nắn chỉnh. Phương pháp điều trị bảo tồn bằng nắn chỉnh bó bột là
phương pháp đơn giản dễ thực hiện, được áp dụng khá phổ biến ở Việt Nam trước
đây. Tuy nhiên, phương pháp này có thể gặp các biến chứng liền xương lệch, làm
mất độ cong sinh lý của xương quay, hẹp màng liên cốt, thay đổi trục xương dẫn
đến hạn chế sấp, ngửa cẳng tay, thời gian bất động lâu nên hay gặp các biến chứng
teo cơ, cứng khớp hạn chế vận động và tỷ lệ phục hổi chức năng kém hơn các
phương pháp khác.
2. Điều trị bằng phẫu thuật
Chỉ định chung là gãy cao hai xương cẳng
tay di lệch, (1/3 trên, 1/3 giữa), gãy có biến chứng và khi điều trị không mổ
không có kết quả. Các phương pháp điều trị:
Đinh nội tuỷ
Phương pháp này được chỉ định với các trường
hợp gãy 2 tầng, tình trạng da kém (bỏng), đã dùng nẹp nhưng bị hỏng, xương
không liền, có thêm nhiều thương tổn khác, gãy thân xương ở bệnh nhân nghèo chất
xương và gãy kèm theo mất phần mềm nhiều. Chống chỉ định với tình trạng viêm, ống
tuỷ quá hẹp, sụn đầu xương chưa kín.
Ưu điểm: của phương pháp này là ít ảnh hưởng
tới màng xương, sẹo mổ nhỏ, can vững, to và chắc, lấy đinh không sợ gãy lại.
Nhưng phương pháp này có nhược điểm là kết
hợp xương thường không vững, đặc biệt khi sấp ngửa cẳng tay, vì vậy phải để bột
tăng cường thêm 8-10 tuần. Đinh phải đủ to khoẻ để tránh di lệch. Tuy nhiên
ngày nay đóng đinh kín có chốt ngang dưới màn tăng sáng khắc phục được các nhược
điểm trên. Song nói chung phương pháp này không bằng phương pháp nẹp vít
Phương pháp nẹp vít
Đây hiện là phương pháp tốt nhất. Kỹ thuật
viên sẽ thực hiện mổ theo đường Thompson: Đường nối chỏm quay và mỏm trâm quay,
hoặc đường Henry: Từ rãnh nhị đầu ngoài vòng ra ngoài nếp khuỷu chạy dọc bờ
ngoài cơ cánh tay quay đối với xương quay và dọc theo mào trụ đối với xương trụ.
Vị trí đặt nẹp tốt nhất là 1/3 dưới xương quay, 1/4 trên xương quay, 1/3 trên
xương trụ.
Có 2 cách đặt nẹp: Đặt lên màng xương
không tách màng xương ra khỏi xương hoặc đặt dưới màng xương. Nếu mảnh rời to,
sẽ đặt cố định với 1-2 vít ngoài nẹp, hoặc đặt luôn dưới nẹp vít. Nếu mảnh rời
quá 1/3 thân xương thì sẽ ghép xương tự thân luôn. Bên cạnh đó, xương nào vững
thì kết hợp xương trước, xương nào không vững thì kết hợp xương sau. Nếu cả hai
xương đều gãy vững thì kết hợp xương quay trước.
Ưu điểm: Đây là phương pháp tốt nhất, kết
hợp xương vững, tôn trọng các đoạn cong sinh lý của xương quay. Bệnh nhân tập
phục hồi chức năng sớm. Tháo nẹp sau 24 tháng.
3. Theo dõi, phục hồi chức năng sau điều trị
Nếu nắn tốt, bất động vững, xương sẽ liền
sau 2 tháng. Bệnh nhân cần tập vận động thường xuyên sau thời gian bất động
giúp phục hồi chức năng tốt, chú ý sấp ngửa cẳng tay đúng phương pháp. Sau thời
gian bất động bằng bột ( 8-12 tuần, trẻ em 5-6 tuần) mà xương vẫn chưa liền vững,
có thể bất động thêm 2-4 tuần. Nếu xương vẫn chưa liền có thể có hiện tượng chậm
liền xương hay khớp giả. Bệnh nhân nên thông báo cho bác sĩ để được khám nghiệm
kịp thời.