Viêm khớp nhiễm khuẩn là có tổn thương viêm một hay
nhiều khớp do vi khuẩn gây ra. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm có thể
dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị tích cực
là biện pháp tốt nhất để bảo vệ khớp.
1. Dấu hiệu phát hiện viêm khớp nhiễm khuẩn
Hầu hết bệnh nhân bị viêm khớp nhiễm khuẩn
chỉ xảy ra ở một khớp.Tuy nhiên, cũng có số ít trường hợp bệnh xảy ra ở nhiều
khớp. Triệu chứng của bệnh cũng rất thay đổi, tùy thuộc vị trí khớp bị viêm, loại
vi khuẩn gây bệnh và các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn của bệnh nhân. Song, một ca
viêm khớp nhiễm khuẩn điển hình thường có các dấu hiệu sau: sốt, lạnh run, khớp
sưng, nóng, đỏ, đau và cứng, khó cử động.
Hay gặp viêm ở các khớp lớn như khớp gối,
khớp mắt cá chân, khớp háng và khớp khuỷu tay. Đối với những bệnh nhân có các yếu
tố nguy cơ gây viêm khớp, có thể bị viêm nhiễm ở các khớp không điển hình như
khớp ức đòn, khớp ngón tay chân, khớp hàm... Các vi khuẩn bất thường, như
Brucella spp có thể gây nhiễm khuẩn ở các khớp ít gặp, chẳng hạn khớp cùng - chậu.
Xét nghiệm dịch khớp có thể phát hiện vi khuẩn gây bệnh.
Dịch khớp có số lượng bạch cầu tăng, chỉ
điểm của tình trạng nhiễm khuẩn. Cấy dịch khớp thấy vi khuẩn phát triển, lấy dịch
khớp làm kháng sinh đồ giúp nhận dạng vi khuẩn gây bệnh và xác định loại kháng
sinh thích hợp để điều trị. Chụp Xquang khớp giúp phát hiện tổn thương xương kế
cận khớp.Kiểm tra bằng chụp cộng hưởng từ (MRI) giúp đánh giá sự phá hủy khớp.Xét
nghiệm máu thấy bạch cầu tăng, vận tốc lắng máu và creactive protein tăng.
2. Phương pháp điều trịvà phòng bệnh
Điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn chủ yếu là
sử dụng kháng sinh và dẫn lưu hoạt dịch nhiễm khuẩn ra khỏi khớp.Dùng kháng
sinh càng sớm càng tốt.Việc lựa chọn kháng sinh cần dựa vào kết quả cấy dịch khớp
và kháng sinh đồ.Trong khi chờ đợi kết quả kháng sinh đồ, nên dùng ngay kháng
sinh phổ rộng hoặc phải kết hợp nhiều loại kháng sinh.Thuốc kháng sinh cần được
sử dụng liên tục trong thời gian từ 4 - 6 tuần. Nếu do vi nấm gây viêm khớp thì
dùng kháng sinh chống nấm và dùng thuốc kháng virut để điều trị viêm khớp do
virut.
Dẫn lưu dịch khớp nhiễm khuẩn là thủ thuật
thiết yếu, lúc đầu dùng bơm kim tiêm chọc hút dẫn lưu đều đặn hằng ngày, sau
dùng phẫu thuật. Nội soi khớp được dùng để súc rửa khớp và cắt lọc các mô viêm
nhiễm hoại tử.Dùng phẫu thuật để dẫn lưu khớp khi không thực hiện được dẫn lưu
đầy đủ bằng bơm tiêm và nội soi khớp.Sau phẫu thuật mổ hở hoặc nội soi khớp,
đôi khi cần đặt ống để tiếp tục dẫn lưu dịch khớp nhiễm khuẩn đã tái tạo lại
trong các ngày sau.
Biến chứng dễ gặp là khớp sẽ bị phá hủy hoặc
dính khớp nếu nhiễm khuẩn để quá lâu. Nhiễm khuẩn hô hấp là biến chứng nguy hiểm
gây tử vong khoảng 10% trường hợp. Bệnh
nhân bị viêm nhiều khớp nhiễm khuẩn, có thể tử vong tới 30%.Vì vậy, việc chẩn
đoán và điều trị tích cực là biện pháp tốt nhất để bảo vệ khớp.